Posts in Category: Chung

Thư Từ Người Con Gái của Một Anh Hùng Hoàng Sa

FB Huy Duc
January 29, 2014 at 5:54pm

Nhịp Cầu Đầu Tiên

Hôm qua, Thảo đi Bến Tre tảo mộ ông bà nội đến tối mới về, nghe mẹ nói có 3 người đến thăm và tặng gia đình 10 triệu đồng. Mẹ Thảo có hỏi tên nhưng họ chỉ nói là bạn với Huy Đức… Cám ơn anh. Nhưng anh ơi, 74 người đã mất trong trận hải chiến năm đó mà chỉ có  gia đình Thảo và bác Thà được tri ân thì thật đau xót cho 72 gia đình còn lại. Dù là lính hay sĩ quan thì cũng là một mạng người như nhau, thân nhân cũng đau xé ruột gan như nhau mà thôi. Xin hãy cùng tri ân tất cả mọi người, kể cả những người còn sống, như vậy mới công bằng, không lẽ những người sống sót sau trận chiến đó, như chú Bảy, chú Hà, là không đáng quý?”.

Trên đây là đoạn thư của cô Nguyễn Thị Thanh Thảo, con gái thiếu tá hạm phó Nguyễn Thành Trí, gửi chúng tôi hôm 26 Tết.

Thảo ơi, chắc chắn rất nhiều người ở đây cũng nghĩ như Thảo. Tuy nhiên, cho đến nay, chúng tôi chỉ mới liên lạc được 15 gia đình có thân nhân hy sinh hoặc trở về sau trận hải chiến Hoàng Sa năm 1974. Thư của Thảo cũng cho biết: “Thảo nói như vậy là muốn nhờ anh và các bạn của anh quan tâm, giúp đỡ dùm gia đình bà quả phụ trung sĩ Nguyễn Thành Trọng, HQ 10, hiện đang ở Cần Thơ. Chú Trọng có 1 đứa con trai duy nhất tên là Nguyễn Hoàng Sa. Cũng giống như em trai Thảo – Nguyễn Hoàng Sa mồ côi cha khi còn nằm trong bụng mẹ“. Em trai của Thảo tự cũng là Hoàng Sa. Chúng ta vẫn chưa biết sau sự kiện 19-1-1974, có bao nhiêu công dân Việt Nam đã được đặt tên Hoàng Sa.

Hôm sau, ngày 27 Tết, chúng tôi đã nói chuyện với Nguyễn Hoàng Sa. Anh cho biết đang sống cùng mẹ, nghề nghiệp không ổn định. Gia đình bà quả phụ Nguyễn Thành Trọng có thể là thành viên thứ 16, mà chúng tôi biết được, của “gia đình Hoàng Sa”.

Sau nhiều thập kỷ đau thương, đất Việt có hàng triệu người cần được tri ân. Nhưng Thảo ơi, mỗi người chỉ có thể làm một phần. Mỗi chương trình chỉ có thể đến được với một số ít trong danh sách không bia nào ghi hết đó.

Chỉ sau 20 ngày vận động, Chương trình Nhịp Cầu Hoàng Sa đã nhận được hơn 845 triệu đồng từ hơn 300 cá nhân, tổ chức. Người Việt trong nước, người Việt ở Mỹ, Úc, Canada, ở Đông Âu, ở Nhật… đã thường xuyên quên góp, gửi thư động viên và góp ý với chúng tôi.

Cho tới sáng 28 Tết, ngày giỗ thứ 40 của thiếu tá Nguyễn Thành Trí, chúng tôi đã chuyển 5 phần quà, mỗi phần 5 triệu đồng, tới 5 gia đình Hoàng Sa. Đúng như con gái của thiếu tá Nguyễn Thành Trí nói, ai trong số 15 gia đình Hoàng Sa mà chúng tôi liên lạc được cũng đều xứng đáng được tri ân. Tuy nhiên, sau khi thảo luận trong nhóm vận động và trao đổi với một số thành viên trong “gia đình Hoàng Sa”, chúng tôi chọn 5 trường hợp có hoàn cảnh đặc biệt, gồm: gia đình bà quả phụ trung tá Ngụy Văn Thà; gia đình bà quả phụ thiếu tá Nguyễn Thành Trí; gia đình trung sĩ Vũ Văn Chu (hiện đang bị liệt sau khi đột quỵ); gia đình thượng sĩ Trần Dục, người tham chiến trên tàu HQ-4, hiện đang sống ở Huế; gia đình ông Vương Lăng, em trai ông Vương Thương, trung sỹ giám lộ trên tàu HQ-10.

“Hoàng Sa” là một “nhịp cầu”, Chương trình của chúng tôi không chỉ tri ân những người lính Việt Nam Cộng hòa tham gia bảo vệ Hoàng Sa ngày 19-1-1974 mà còn hướng đến việc tri ân các thế hệ Việt Nam đã từng góp công giữ gìn biển, đảo. Được sự khích lệ của các thành viên trong “gia đình Hoàng Sa”, Tết này, chúng tôi còn tặng 5 phần quà, mỗi phần 5 triệu đồng, tới các gia đình người lính Quân đội Nhân dân Việt nam đã hy sinh, đã tham bảo vệ đảo Gạc Ma ngày 14-3-1988.

Nhờ các nhà báo Trần Đăng, Káp Thành Long, Võ Văn Tạo, Hồ Trung Tú, Lê Đức Dục… danh sách gia đình những người lính tham gia bảo vệ Gạc Ma chúng tôi có nhiều hơn. Nhiều người trong số họ đang có cuộc sống khó khăn. Tuy nhiên, do điều kiện thời gian và do, trong giai đoạn đầu, Chương trình tập trung cho mục tiêu “mái ấm Hoàng Sa”, nên chúng tôi chỉ có thể chuyển quà tới 5 gia đình:

Gia đình liệt sỹ Lê Đình Thơ, còn mẹ là Lê Thị Lượng đang sống ở xã Hoằng Minh, huyện Hoằng Hóa tỉnh Thanh Hóa; gia đình liệt sỹ Cao Xuân Minh, bố là Cao Xuân Điền, mẹ là Nguyễn Thị Văn, đang sống ở xã Hoằng Quang, thành phố Thanh Hóa; gia đình liệt sĩ Đinh Ngọc Doanh, vợ là chị Hà, đang sống ở xã Cam Nghĩa, thị xã Cam Ranh, Khánh Hòa (sau khi chồng hy sinh, chị Hà ở vậy nuôi con bằng nghề phụ hồ); gia đình anh Trương Văn Hiền, sau trận Gạc Ma, anh Hiền bị Trung Quốc bắt làm tù binh, hiện làm rẫy ở xã Hòa Thắng, Buôn Ma Thuột; gia đình liệt sỹ Nguyễn Bá Cường, hiện còn mẹ già, sống ở thị trấn Thanh Quýt, Điện Bàn, Quảng Nam. Mẹ liệt sỹ Cường, mẹ Ngò, 85 tuổi, hiện sống rất nghèo, ngoài khoản tiền tuất liệt sĩ (1,1 triệu/tháng), mẹ không có nguồn nào khác.

Các nhà báo Trần Ngọc Quyền (Dak Lak), Hữu Trà (Đà Nẵng), Cao Ngọ (Thanh Hóa)… đã giúp chúng tôi chuyển quà tới các “gia đình Gạc Ma” trước ngày 27 Tết.

Cũng trong mấy ngày qua, chúng tôi đã trao đổi với gia đình bà quả phụ Ngụy Văn Thà, bà quả phụ Nguyễn Thành Trí về kế hoạch mua hai căn hộ. Đúng như Thảo – con gái thiếu tá Nguyễn Thành Trí – nói, “không lẽ chỉ có hai gia đình được tri ân”. Chương trình mới bắt đầu và con đường của chúng ta còn dài, Thảo ạ.

Chúng tôi hy vọng bà Huỳnh Thị Sinh sẽ có căn hộ mới trong tháng Giêng năm Giáp Ngọ, để bà có nơi đặt bàn thờ chồng, để những đồng đội của trung tá Ngụy Văn Thà mỗi lần quy tụ, có thể thắp nén nhang, tưởng nhớ những người đã vì Hoàng Sa mà hy sinh. Chúng tôi hy vọng các bạn sẽ cùng đi với Nhịp Cầu Hoàng Sa. Với những người lính mà xương cốt vẫn nằm nơi biển sâu, mỗi một cử chỉ nhỏ của chúng ta, có thể làm cho nhang khói trên bàn thờ của họ bớt phần lạnh lẽo.

Danh sách tử sĩ Hoàng Sa

DANH SÁCH 74 TỬ SĨ HOÀNG SA

 

T/T Chức vụ Đơn vị Họ Tên Năm sinh Ghi chú (số quân và quê quán)
1 Hạ sĩ HQ 10 Phạm Văn Ba 1951 71A/702.200 ; HS/CK
2 Trung sĩ HQ 10 Trần Văn Ba 1945 65A/700.365 ; TrS/CK
3 Đại úy HQ 10 Vũ Văn Bang 1946 66A/702.337
4 Hạ sĩ HQ 10 Trần Văn Bảy 1948 68A/701.244 ; HS/CK
5 Thượng sĩ HQ 10 Nguyễn Hồng Châu 1939 59A/700.126 ;ThS1/ TrP Quản nội trưởng ; Phường 6 Quận 4,Sài Gòn
6 Trung sĩ HQ 10 Phan Tiến Chung 1946 66A/701.539 ; TrS1/VT
7 Hạ sĩ HQ 10 Nguyễn Xuân Cường 1951 71A/700.550 ; HS/GL
8 Hạ sĩ HQ 10 Trần Văn Cường 1952 72A/701.122HS./DK
9 Hạ sĩ HQ 4 Bùi Quốc Danh   Xạ thủ ; HS1/VC
10 Trung sĩ HQ 10 Lê Anh Dũng 1950 70A/700.820 ; TrS/TX
11 Hạ sĩ HQ 16 Nguyễn Văn Duyên   HS/QK
12 Trung sĩ HQ 10 Phạm Ngọc Đa 26/03/1951 71A703.001; TS/Vch; Xã Vĩnh Trạch huyện Thoại Sơn,tỉnh An Giang
13 Trung sĩ HQ 10 Trần Văn Đảm 04/02/1944 64A/701.108 ; TrS/BT; Làng Yên Đổ Nam Định (nay là xã Trung Lương huyện Bình Lục tỉnh Hà Nam)
14 Hạ sĩ HQ 10 Trương Hồng Đào 1951 71A/704.001 ; HS/VCh
15 Hạ sĩ HQ 10 Trần Văn Định 13/05/1949 69A/700.627 ; HS1/DV; Quận Ba

Sài Gòn

16

 

Trung úy Trưởng toán NN Lê Văn Đơn 1950 Quê Ngọc Thủy Cồn Dừa Nha Trang
17 Hạ sĩ HQ 10 Nguyễn Văn Đông 1951 71A/703.792 ; HS/CK
18 Trung úy HQ 5 Nguyễn Văn Đồng 1948 quê Huế ;là nhà thơ với bút danh Trầm Kha
19 Trung úy HQ 10 Phạm Văn Đồng 1947 67A/701.990
20 Thủy thủ HQ 10 Nguyễn Văn Đức 1953 73A/701.604 ; TT1/TP
21 Thượng sĩ HQ 5 Nguyễn Phú Hảo 1940 ThS/ĐT ; Hải Châu Đà Nẵng
22 Hạ sĩ HQ 10 Nguyễn Ngọc            Hòa 1951 71A/705.756 ; HS/DK
23 Hạ sĩ HQ 10 Nguyễn Văn Hoàng 1952 72A/702.678 ; HS/GL
24 Trung úy HQ 10 Vũ Ðình Huân 1949 69A/703.058
25 Hạ sĩ HQ 10 Phan Văn Hùng 1951 71A/706.091; HS/TP
26 Thượng sĩ HQ 10 Võ Thế Kiệt 1941 61A/700.579 ;ThS1/ĐK
27 Thủy thủ HQ 10 Nguyễn Văn Lai 1951 71A/703.668 ; TT /VCh
28 Thủy thủ HQ 10 Phạm Văn Lèo 1953 73A/702.651; TT1/TX
29 Thượng sĩ HQ 10 Hoàng Ngọc Lê 1933 53A/700.030; ThS/VC
30 Thượng sĩ HQ 10 Phan Tấn Liêng 1936 56A/700.190 ; ThS1/CK
31 Hạ sĩ Người Nhái Ðỗ Văn Long    
32 Thủy thủ HQ 10 Dương Văn Lợi 1953 73A/701.643 ; TT1/CK
33 Hạ sĩ HQ 10 Nguyễn Văn Lợi 1942 62A/700.162; HS/TP
34 Trung sĩ HQ 10 Lai Viết Luận 1949 69A/700.599; TrS/ĐK
35 Hạ sĩ HQ 10 Ðinh Hoàng Mai 1950 70A/700.729 ; HS1/CK
36 Hạ sĩ HQ 10 Nguyễn Quang Mén 1945 65A/702.384;

HS1/TP

37 Hạ sĩ HQ 10 Trần Văn Mộng 1951 71A/703.890 ; HS1/CK
38 Trung sĩ HQ 10 Võ Văn Nam 1951 71A705.697 ; TS/TP
39 Thủy thủ HQ 10 Nguyễn Văn Nghĩa 1952 72A/703.928 ; TT1/TP
40 Thủy thủ HQ 10 Ngô Văn Ơn 1949 69A/701.695 ; TrS/GL
41 Thủy thủ HQ 10 Nguyễn Hữu Phương 1953 73A/702.542 ; TT1/PT
42 Hạ sĩ HQ 10 Nguyễn Văn Phương 1951 71A/705.951HS./PT
43 Thượng sĩ HQ 5 Vũ Ðình Quang 1942 62A700 710 ; TS1/TP
44 Thủy thủ HQ 10 Lý Phùng Qúy 1951 71A/704.165 ; TT1/TP
45 Trung sĩ HQ 10 Phạm Văn Quý 1951 71A/703.502 ; TrS/CK
46 Trung sĩ HQ 10 Huỳnh Kim Sang 1950 70A/702.678 ; TrS/TP; xã Phước Hậu, quận Châu Thành, tỉnh Vĩnh Long
47 Hạ sĩ HQ 10 Ngô Sáu 1948 68A/700.546 ; HS1/VCh
48 Trung sĩ HQ 10 Nguyễn Tấn Sĩ 1946 66A/701.761; TrS/CK
49 Thủy thủ HQ 10 Thi Văn Sinh 1952 72A/703.039 ; TT1/TP
50 Trung sĩ HQ 10 Ngô Tấn Sơn 1951 71A/705.471; TrS/VCh
51 Hạ sĩ HQ 10 Lê Văn Tây 19/05/1948 68A/700.434 ; HS1/VCh ; Buôn Ma Thuột Đắk Lắk
52 Trung tá HQ 10 Ngụy Văn Thà 16/01/1943 63A/700.824; Hạm trưởng; Trảng Bàng Tây Ninh
53 Đại úy HQ 10 Huỳnh Duy Thạch 11/2/1943 63A/702.639;

xã Nhơn Thạnh Trung,Tân An,Long An

54 Trung úy HQ 10 Ngô Chí Thành 1948 68A/702.453
55 Hạ sĩ HQ 10 Nguyễn Văn Thân 1951 71A/702.606 ; HS/TP;

Nhà Bè Sài Gòn

56 Hạ sĩ HQ 10 Phan Văn Thép 1950 70A/703.166 ; HS/PT
57 Hạ sĩ HQ 10 Trần Văn Thêm 1941 61A/701.842 ; HS/CK
58 Thượng sĩ HQ 10 Trần Văn Thọ 1951 71A706.845; ThS/ĐT
59 Thủy thủ HQ 10 Phạm Văn Thu 1950 70A/702.198 ; TT1/VT
60 Hạ sĩ HQ 10 Lương Thanh Thú 1950 70A/700.494; HS1/VCh; Thừa Thiên Huế
61 Thủy thủ HQ 10 Ðinh Văn Thục 1951 71A/704.487; TT1/DT
62 Trung sĩ HQ 10 Vương Thương 02/06/1944 64A700.777 ; TS/GL;Phong Điền tỉnh Thừa Thiên Huế
63 Thủy thủ Người Nhái Nguyễn Văn Tiến    
64 Thiếu tá, HQ 10 Nguyễn Thành Trí 24/01/1941 61A/702.714; Hạm phó; Sa Đec,Đồng Tháp
65 Trung sĩ HQ 10 Nguyễn Thành Trọng 22/10/1952 72A/700.861; TrS/TP; Vĩnh Xuân Cần Thơ (nay là Xã Vĩnh Xuân , huyện Trà Ôn ,Vĩnh Long)
66 Hạ sĩ HQ 10 Huỳnh Công Trứ 1951 71A/701.671; HS/VCh
67 Trung sĩ HQ 10 Nguyễn Văn Tuấn 1951 71A700.206 TS/QK
68 Thủy thủ HQ 10 Châu Tùy Tuấn 1953 73A/702.206 ; TT1/CK
69 Thượng sĩ Người Nhái Ðinh Khắc Từ    
70 Biệt hải HQ 4 Nguyễn Văn Vượng   Tiếp đạn
71 Trung úy HQ 4 Nguyễn Phúc Xá 18/11/1950 Tr Khẩu 20 ; xã Đinh Xá Phủ Lý ,tỉnh Hà Nam ; Bình tro cốt tại chùa Thích Ca 386/81 Lê Văn Sỹ Ph 14 quận 3
72 Trung sĩ HQ 10 Nguyễn Quang Xuân 1950 70A/703.755;

TrS/ĐT

73 Trung sĩ HQ-10 Nguyễn Vĩnh Xuân 1950 70A/703.062;

TrS/TP

74 Thượng sĩ HQ 16 Trần Văn Xuân 11/02/1948 68A/701.074 ; TS/ĐK; Thạch Thất ,Sơn Tây Hà Nội ; Bình tro cốt tại chùa Phước Duyên 124 Xóm Chiếu Ph 14 Quận 4

 

 

 

40 năm hải chiến Hoàng Sa – Báo Tuổi Trẻ

“40 năm đã trôi qua, nhưng chúng tôi không thể nào quên được trận hải chiến Hoàng Sa năm 1974. Nhiều đồng đội của chúng tôi đến giờ vẫn còn lại dưới đáy sâu vùng biển này. Thân xác và hương hồn những người lính Việt đã hòa với cát đá, sóng gió đại dương để mãi mãi khẳng định rằng nơi này chưa một ngày nào chia lìa Tổ quốc…”.

TT – Ngày 11-1-1974, Trung Quốc đơn phương tuyên bố chủ quyền trên quần đảo Hoàng Sa. Kèm theo những lời tuyên bố vô căn cứ, Trung Quốc phái nhiều tàu đánh cá võ trang và tàu chiến xâm nhập hải ày hôm sau 12-1-1974, ngoại trưởng Việt Nam cộng hòa (VNCH) Vương Văn Bắc đã cực lực bác bỏ luận điệu ngang ngược và lên án hành động xâm lăng gây hấn của Trung Quốc. Đồng thời, Bộ tư lệnh hải quân VNCH khẩn cấp tăng cường chiến hạm tuần tiễu tại vùng biển Hoàng Sa.

Ảnh vệ tinh đảo Quang Hòa (Duncan) nơi bắt đầu trận hải chiến Hoàng Sa 1974

Ảnh vệ tinh đảo Quang Hòa (Duncan) nơi bắt đầu trận hải chiến Hoàng Sa 1974

Đổ bộ, cắm cờ và khiêu khích

Phó đề đốc Hồ Văn Kỳ Thoại, tư lệnh hải quân vùng 1 duyên hải, viết trong hồi ký: “Vào ngày 15-1-1974, tuần dương hạm Lý Thường Kiệt (HQ16), hạm trưởng là trung tá Lê Văn Thự, được lệnh đưa địa phương quân thuộc tiểu khu Quảng Nam và nhân viên khí tượng ra Hoàng Sa để thay thế toán đang ở ngoài đó hết nhiệm kỳ. Cùng đi còn có hai sĩ quan công binh đi theo tàu để nghiên cứu việc tu sửa lại cầu tàu tại Hoàng Sa và một người Mỹ tên Gerald Kosh xin đi để biết đảo Hoàng Sa… Khi chiến hạm vừa khởi hành, tôi được báo cáo từ Hoàng Sa là thấy một vài ghe đánh cá xuất hiện rất gần bờ tại đảo Pattle. Tôi liền chuyển tin tức đó cho chiến hạm HQ16”.

Sáng 16-1, đến đảo Pattle (Hoàng Sa), HQ16 cho bốn nhân viên cơ hữu dùng xuồng chở sáu người trong đoàn công binh lên đảo do thiếu tá Hồng chỉ huy và trong khi chờ đoàn công binh trở lại tàu, hạm trưởng HQ16 “thấy trên đảo Quang Hòa bốn năm người ăn mặc như thường dân, có người ở trần, đi lại gần một dãy nhà đang cất dở dang”. Hạm trưởng Thự liền hỏi bộ chỉ huy và được biết trên đảo này không có “quân ta”.

Đến trưa 16-1-1974, HQ16 lại thấy “một chiến hạm Trung Quốc xuất hiện trong vùng”. Trung úy Đào Dân, sĩ quan phụ tá trên HQ16, ra lệnh đánh tín hiệu nhưng tàu lạ im lặng. Ông viết trong hồi ký: “Tôi liền hội ý với hạm trưởng và khai hỏa đại liên 30 li cố ý đuổi nó ra khỏi vùng đảo nhưng tàu lạ vẫn không nhúc nhích”. HQ16 tiến gần hơn khoảng 500m thì thấy rõ lá cờ Trung Quốc. Một mặt HQ16 báo cáo về bộ chỉ huy, một mặt dùng tay, cờ và loa phóng thanh tiếng Hoa “yêu cầu ra khỏi hải phận Việt Nam”. Lúc đó tàu Trung Quốc không trả lời, nhiều người lên boong tàu, “đa số mặc quần cụt, áo thun, một số mặc quân phục”. Mãi một lúc lâu, tàu Trung Quốc cũng lên tiếng “yêu cầu ngược lại”. Đồng thời, “nhiều tàu cá xuất hiện cạnh đảo Money và hàng trăm lá cờ Trung Quốc cắm rải rác dọc bờ cát trắng”.

Trước tình hình đặc biệt nghiêm trọng này, trung tá Thự phải báo cáo về bộ tư lệnh hải quân và xin được tăng viện. Khu trục hạm Trần Khánh Dư số hiệu HQ-4, do trung tá Vũ Hữu San làm hạm trưởng, được lệnh khẩn cấp hành quân ra Hoàng Sa.

40 năm đã trôi qua, cựu thượng sĩ Trần Dục hiện đang sống ở Huế vẫn không thể quên được cuộc hành quân đặc biệt này. “Khoảng giữa tháng 1-1974, khu trục hạm HQ-4 Trần Khánh Dư sắp hoàn thành nhiệm vụ tuần tra biển vùng 1 và chuẩn bị vào bờ. Đang tính toán lên bờ Đà Nẵng sẽ mua sắm quà tết gì cho gia đình thì bất ngờ nhận nhiệm vụ mới ở Hoàng Sa. Anh em binh sĩ, thủy thủ đoàn chưa rõ tình hình nhưng đoán nhiệm vụ rất quan trọng. Bởi tết nhất rồi mà còn phải hành quân khẩn cấp chắc chắn phải có lý do quân sự”. Ông Dục lúc ấy là quản trưởng có trách nhiệm thay mặt hạm trưởng sắp xếp, điều động toàn bộ nhân sự trên tàu.

Cuộc hành quân lúc 0 giờ

Công tác chuẩn bị của khu trục hạm Trần Khánh Dư rất gấp rút. Buổi chiều, hạm trưởng San lên bờ họp trong khi bộ phận còn lại hối hả tiếp liệu, lương thực, đạn dược… Khoảng nửa đêm 16-1, tàu quay mũi rời Đà Nẵng hướng ra Hoàng Sa. Ngoài binh sĩ cơ hữu, tàu chở thêm một trung đội biệt hải do đại úy Nguyễn Minh Cảnh chỉ huy. HQ-4 là chiến hạm thuộc lớp hiện đại nhất thời điểm ấy của hải quân VNCH nên tốc độ khá cao. Khoảng trưa 17-1, khu trục hạm HQ-4 Trần Khánh Dư đã gia nhập với tuần dương hạm HQ16 Lý Thường Kiệt có mặt từ trước.

Tư lệnh vùng 1 duyên hải Hồ Văn Kỳ Thoại “chỉ định trung tá Vũ Hữu San giữ chức vụ chỉ huy chiến thuật (OTC-officer in tactical command) phân đội hoạt động vùng Hoàng Sa, gồm tuần dương hạm Lý Thường Kiệt (HQ16) và khu trục hạm Trần Khánh Dư”. Trung úy hải quân Đào Dân kể: Vừa nhập vùng, HQ-4 hành động ngay. HQ-4 từ phía nam đảo Money chạy lên, HQ16 từ đảo Pattle chạy xuống kềm chặt hai chiếc tàu Trung Quốc vào giữa. Hai bên đấu khẩu nhau. Cuối cùng HQ-4 nổ máy đâm thẳng tàu địch đuổi nó ra khơi”.

Là một trong những sĩ quan thường xuyên có mặt trên đài chỉ huy cùng hạm trưởng San, cựu trung úy Phạm Ngọc Roa (hiện sống ở Lâm Đồng), phụ tá sĩ quan hải hành, kể: “Hạm trưởng San là một người thẳng thắn và nóng tính, sẵn sàng thực hiện ngay việc mình xác quyết là đúng. Trung tá San lệnh dùng cờ, quang hiệu lẫn loa phát tiếng Việt, Trung, Anh để đuổi tàu Trung Quốc. Lúc đầu tàu Trung Quốc còn im lặng, đậu lì. Sau đó họ cũng trả lời dối trá lại đây là vùng chủ quyền Trung Quốc, yêu cầu tàu VNCH phải rời ngay lập tức. Hai bên vờn nhau mãi không giải quyết được gì, trung tá San cảnh báo, rồi ra lệnh bẻ lái ủi thẳng vào chiếc tàu giả trang ngư nghiệp 407 của Trung Quốc theo hướng đẩy ra xa đảo. Mũi khu trục hạm Trần Khánh Dư cao lớn hơn, chồm lên đè bể một phần buồng lái chiếc tàu 407 làm nó và một chiếc gần đó hoảng sợ, phải lùi ra xa.

Ông Dân mô tả “Trước thái độ quyết liệt của HQ-4, tàu địch bỏ chạy về phía nam của hai đảo Duy Mộng và Quang Hòa. Sau khi đuổi hai tàu địch, HQ-4 đổ bộ khoảng 20 người nhái lên đảo Money dẹp cờ Trung Quốc, cắm cờ VN. Còn HQ16 chuẩn bị đổ bộ 15 nhân viên cơ hữu lên đảo Robert do trung úy Lâm Trí Liêm chỉ huy. Toán này mang vũ khí đầy đủ, lương thực khô vài ba ngày”.

Thượng sĩ giám lộ Lữ Công Bảy trên HQ-4 kể: “Trung đội biệt hải lên đảo Quang Ảnh không phát hiện gì ngoài vài nấm mộ hình như mới đắp, không có bia, chỉ có cọc gỗ và bảng gỗ đóng trước đầu mộ ghi chữ Trung Quốc với ngày sinh và chết mấy chục năm trước. Các chiến sĩ biệt hải được lệnh đào bới các nấm mộ lên, chẳng thấy xương cốt gì cả. Đây là những nấm mộ ngụy tạo…”.

Đêm 17 rạng 18-1 là đêm cực kỳ căng thẳng. Phía Trung Quốc tiếp tục tăng cường lực lượng và cố tình khiêu khích. Các chiến hạm của họ tiến sâu vào lãnh hải Hoàng Sa. Tàu HQ-4 và HQ16 dùng tín hiệu cảnh cáo: “Đây là lãnh hải của Việt Nam. Yêu cầu các ông hãy rời khỏi đây ngay!”. Phía Trung Quốc đáp trả rằng Hoàng Sa là của họ!

TRẦN NHẬT VY – QUỐC VIỆT

Trung tá hạm trưởng HQ-4 Vũ Hữu San - Ảnh tư liệu

Trung tá hạm trưởng HQ-4 Vũ Hữu San – Ảnh tư liệu

Sáng 17-1, theo nhà nghiên cứu Trần Đỗ Cẩm, “HQ16 quay lại đảo Hữu Nhật thấy hai tàu Trung Quốc vẫn còn đó. Ngoài ra, gần đảo Quang Ảnh (Money) lân cận cũng có tàu Trung Quốc xuất hiện với hàng trăm lá cờ Trung Quốc cắm rải rác dọc bãi cát trắng. Hạm trưởng HQ16 liền báo cáo “hai tàu cá Trung Quốc không tuân lệnh của chiến hạm VNCH ra khỏi lãnh hải VN và xuất hiện hai tàu chở quân của Trung Quốc đến gần đảo và trên bờ có cắm nhiều cờ của Trung Quốc”. Nhận được báo cáo, đô đốc Hồ Văn Kỳ Thoại ra lệnh cho HQ16 đổ bộ nhân viên cơ hữu lên đảo Quang Ảnh để triệt hạ cờ Trung Quốc.Trung tá Thự cho một toán đổ bộ gồm một trung úy và 14 đoàn viên của chiến hạm trang bị M79 và súng cá nhân lên bờ bằng xuồng cao su để nhổ hết cờ Trung Quốc mới cắm và thay bằng cờ Việt Nam.

Kỳ 2-Tăng viện tái chiếm đảo

TT – “Sáng 18-1-1974, tình hình Hoàng Sa nóng như thùng thuốc nổ. Chiến hạm TQ được điều đến thêm. Chiến hạm VN từ Đà Nẵng lao ra.

HQ-16 Lý Thường Kiệt

HQ-16 Lý Thường Kiệt

Mọi người trên tàu đều sẵn sàng ở nhiệm sở chiến đấu. Binh sĩ các khẩu đội pháo phải ăn cơm tại chỗ. Đi vệ sinh cũng chỉ từng người để có thể tác xạ lập tức” – 40 năm đã trôi qua, cựu thượng sĩ Trần Dục, quản trưởng khu trục hạm HQ-4 Trần Khánh Dư, vẫn không kìm được sự xúc động khi nhắc lại khoảnh khắc ấy.

Tăng viện

Trước diễn biến Trung Quốc điều thêm chiến hạm cao tốc, Bộ tư lệnh hải quân VN cộng hòa đã tăng cường khẩn cấp hộ tống hạm Nhật Tảo HQ-10 và tuần dương hạm Trần Bình Trọng HQ-5.

Tối 17-1, tàu HQ-10 khởi hành trước, sau đó HQ-5 cũng từ Đà Nẵng quay mũi tàu hướng ra Hoàng Sa. Khoảng 3g15 ngày 18-1, hai chiến hạm gặp nhau ở tọa độ cách hải đăng Tiên Sa khoảng 8 hải lý về hướng đông. Trung tá Phạm Trọng Quỳnh là hạm trưởng tuần dương hạm HQ-5. Trên tàu còn có mặt đại tá Hà Văn Ngạc, hải đội trưởng hải đội 3 tuần duyên, nên HQ-5 là soái hạm, và đại tá Ngạc là quyền chỉ huy cao nhất. Tàu này cũng chở thêm biệt đội hải kích 49 người của đại úy Trần Cao Sạ chỉ huy. Tàu HQ-10 do thiếu tá Ngụy Văn Thà làm hạm trưởng.

Trong bốn chiếc, hộ tống hạm Nhật Tảo yếu nhất. Thủy thủ cơ khí Trần Văn Hà, nhân chứng trở về sau trận hải chiến, hiện sống ở Bạc Liêu, kể: “Chiến hạm Nhật Tảo đã kết thúc chuyến tuần tra vùng 1, vào cảng Tiên Sa để chuẩn bị sửa chữa lớn, nhưng vì nhiệm vụ Hoàng Sa nên lại quay mũi ra biển. Mọi người vừa lên bờ chưa kịp ăn xong bữa cơm lại có lệnh đi ngay. Có người về trễ, nhảy với theo tàu, bị rớt xuống nước phải kéo lên”.

Hành quân ra Hoàng Sa, soái hạm HQ-5 Trần Bình Trọng không thể giảm tốc độ chờ HQ-10 Nhật Tảo nên một mình tiến lên trước. Khoảng 15 giờ ngày 18-1, HQ-5 đã vào khu vực quần đảo Hoàng Sa, nhập chung đội hình tác chiến với HQ-4 và HQ-16 đang đối đầu với lực lượng Trung Quốc. Trong hồi ký Tường thuật hải chiến Hoàng Sa được viết lại vào năm 1999, đại tá Hà Văn Ngạc kể: soái hạm HQ-5 đến lòng chảo Hoàng Sa đã thấy lực lượng biệt hải đổ bộ trên tàu HQ-4 và HQ-16 đang kiên cường trấn giữ các đảo Hữu Nhật, Quang Ảnh, Duy Mộng. Phía đảo Quang Hòa, tàu TQ đang lờn vờn bên ngoài.

Căng thẳng trước ngày N

Đại tá Ngạc quyết định lực lượng hải quân VN sẽ phô trương uy lực, bố trí đội hình tiến thẳng theo hàng dọc. Ông Ngạc viết: “Bốn chiến hạm (theo các ghi chép thì nửa đêm 18-1 HQ-10 mới tới do máy phụ đã hư) đều tập trung trong vùng lòng chảo quần đảo Hoàng Sa và hải đoàn đặc nhiệm đã hình thành. Nhóm chiến binh của HQ-4 và HQ-16 đã đổ bộ và trương quốc kỳ VN trên các đảo Hữu Nhật (Robert) do trung úy Lê Văn Dũng chỉ huy, đảo Quang Ảnh (Money) do trung úy Lâm Trí Liêm chỉ huy và Duy Mộng (Drummond) từ mấy ngày qua vẫn giữ nguyên vị trí. Sau khi quan sát các chiến hạm của TQ lởn vởn phía bắc đảo Quang Hòa (Duncan), tôi quyết định hải đoàn sẽ phô trương lực lượng tiến về đảo Quang Hòa. Bốn chiến hạm hàng dọc tiến về đảo Quang Hòa, nơi các chiến hạm TQ đang tập trung”.

Ông Ngạc viết tiếp: “Chừng nửa giờ thì hai chiến hạm TQ loại Kronstadt mang số hiệu 271 và 274 phản ứng bằng cách chặn trước hướng đi của hải đoàn. Hai chiến hạm nhỏ hơn số hiệu 389 và 396 cùng hai ngư thuyền ngụy trang 402, 407 vẫn nằm sát đảo Quang Hòa. Chiếc 271 liên lạc bằng quang hiệu và HQ-5 nhận công điện bằng Anh ngữ: “These islands belong to the People Republic of China…”. Tôi cho gửi ngay một công điện khái quát như sau: “Please leave our territorial water immediately”.

Thượng sĩ giám lộ Lữ Công Bảy (hiện sống tại TP.HCM) kể: “8 giờ sáng, HQ-4 được lệnh đổ bộ trung đội biệt hải lên đảo Hữu Nhật và cũng phát hiện những ngôi mộ giả như ở đảo Quang Ảnh”. Toán đổ bộ, sau khi hạ cờ TQ cắm cờ VN, đã tìm địa thế thích hợp để phòng thủ”. Đến 11 giờ, đài khí tượng và quân đồn trú đảo Hoàng Sa báo cáo có hai tàu đánh cá vũ trang mang cờ TQ xâm nhập và tiến đến gần đảo Hoàng Sa.

HQ-4 và HQ-16 được lệnh tiến về đảo Hoàng Sa. Khi đến gần tàu đánh cá vũ trang, HQ-4 dùng tín hiệu cảnh cáo và đuổi đi, nhưng cả hai cố tình khiêu khích. HQ-4 tiến thẳng đến một tàu.

Thượng sĩ Lữ Công Bảy cho biết: “Thấy trên tàu có khoảng 30 thuyền viên mặc đồng phục màu xanh dương đậm, trang bị hai thượng liên và rất nhiều AK47. Khu trục hạm HQ-4 quyết định áp sát để đuổi. Hai bên đánh… võ mồm nhưng không tác dụng. HQ-4 lùi ra dùng mũi tàu ủi thẳng tàu TQ. Mũi HQ-4 và neo vướng vào cửa và hành lang phòng lái làm gãy hành lang và cong cửa phòng lái của tàu TQ. HQ-16 cũng quyết liệt như vậy.

Trước thái độ cương quyết của hải quân VN, tàu TQ vội vàng tháo lui. Đêm 18 rạng 19-1, tàu cá vũ trang TQ vẫn tiếp tục tiến gần đảo Hoàng Sa và khiêu khích. HQ-4 phải dùng kèn hơi thật lớn và đèn hồ quang rọi thẳng vào đội hình, tàu TQ mới rút.

Ông Đào Dân nhớ lại: “Buổi tối chỉ có HQ-16 giữa lòng chảo các đảo với quân số hơn 100 người. HQ-4 và HQ-5 trở về phía nam đảo Quang Hòa và Duy Mộng. Khoảng 10 giờ tối, HQ-10 mới tới nhập với HQ-16 trở thành phân đội 1 do trung tá Lê Văn Thự, hạm trưởng HQ-16, chỉ huy”.

Ông Trương Văn Liêm, sĩ quan phụ tá hạm phó HQ-5, nhớ lại: 1g45, tất cả sĩ quan đều có mặt. Hạm trưởng ra lệnh: “Chỉ thị đổ bộ vào sáng sớm, tất cả phải sẵn sàng ở nhiệm sở tác chiến toàn diện lúc 4 giờ sáng”.

QUỐC VIỆT – TRẦN NHẬT VY

Đại tá Hà Văn Ngạc đã gửi một công điện thượng khẩn đến các hạm trưởng vào lúc 11g30 đêm 18-1-1974:- Nhiệm vụ: Hành quân thủy bộ cấp tốc chiếm lại đảo Quang Hòa.

– Thi hành: Đường lối ôn hòa, nếu địch khai hỏa kháng cự thì tập trung hỏa lực tiêu diệt địch.

– Kế hoạch: Hai chiến hạm HQ-4 và HQ-16 có nhiệm vụ yểm trợ lực lượng đổ bộ bằng cách bám sát hai chiến hạm Kronstadt 271 và 274. Nếu địch khai hỏa thì hai chiến hạm này sẽ nổ súng tiêu diệt. HQ-4 đổ bộ biệt hải từ phía tây đảo Quang Hòa và yểm trợ hải pháo cho lực lượng đổ bộ. Chiến hạm này cũng canh chừng các tàu nhỏ và tàu giả trang đánh cá Trung Quốc.

– Ngày N là ngày 19-1, giờ H là 6 giờ sáng.

– Quy luật khai hỏa được căn cứ trên hai trường hợp: Nếu địch khai hỏa trước sẽ phản ứng bằng hỏa lực cơ hữu tiêu diệt càng nhiều càng tốt, ưu tiên hỏa lực vào các chiến hạm quan trọng như Kronstadt hoặc các tàu lớn. Nếu địch tỏ vẻ ôn hòa, sẽ dè dặt và cảnh giác tối đa với phản ứng ôn hòa tương ứng, đồng thời tiến hành nhiệm vụ tái chiếm đảo Quang Hòa bằng thương lượng, sau đó cắm quốc kỳ lên đảo…

Tình hình Hoàng Sa được tư lệnh hải quân vùng 1 duyên hải Hồ Văn Kỳ Thoại báo cáo khẩn cho tổng thống Nguyễn Văn Thiệu nhân chuyến kinh lý miền Trung. Ông Thoại kể: “Sau khi nghe tôi trình bày, tổng thống Thiệu lấy bút giấy ra viết liên tục trong khoảng 15 phút. Sau khi viết xong, ông gọi tôi đến ngay trước mặt ông và yêu cầu tôi đọc mấy trang giấy đó. Tổng thống Thiệu nói: “Anh Thoại đến đây và đọc trước mặt tôi đây, có gì không rõ ràng cho tôi biết ngay từ bây giờ”. Trên đầu trang giấy có mấy chữ “chỉ thị cho tư lệnh hải quân vùng 1 duyên hải”. Sau khi trao thủ bút cho tôi, tổng thống Thiệu hỏi các vị tướng lãnh bộ binh hiện diện có ý kiến gì không. Không ai trả lời. Ông nói tiếp: “Chúng ta không để mất một tấc đất nào cả”.Chỉ thị này ghi rõ: “Tìm đủ mọi cách ôn hòa mời các chiến hạm đối phương ra khỏi lãnh hải VN. Nếu họ không thi hành thì được nổ súng cảnh cáo trước mũi các chiến hạm này và nếu họ ngoan cố thì toàn quyền sử dụng vũ khí để bảo vệ sự toàn vẹn của lãnh thổ VN”. Phần sau, yêu cầu thủ tướng chính phủ “dùng mọi phương tiện để phản đối với quốc tế về sự xâm phạm lãnh hải VN”. Đồng thời yêu cầu “thủ tướng Khiêm và các đại sứ VN tại các quốc gia trên thế giới phải lên tiếng và trình bày rõ ràng về chủ quyền trên các hải đảo Hoàng Sa là thuộc chính phủ VNCH”.

(Trích hồi ký Hồ Văn Kỳ Thoại)

Kỳ 3 – Đổ bộ đảo Quang Hòa

HQ-5 Trần Bình Trọng

HQ-5 Trần Bình Trọng

Chạm trán quyết liệt

Ngay sau khi nhận lệnh, đại tá Ngạc chia hải đoàn thành hai phân đoàn đặc nhiệm. Phân đoàn 1 gồm HQ-4 và HQ-5 do hạm trưởng HQ-4 chỉ huy, có nhiệm vụ đổ bộ nhóm biệt hải và hải kích. Phân đoàn 2 gồm HQ-16 và HQ-10 do hạm trưởng HQ-16 chỉ huy.

Nhiệm vụ phân đoàn 2 là yểm trợ hải pháo và ngăn chặn tàu địch… Phân đoàn 1 khởi hành lúc 12g đêm đi bọc về phía tây rồi xuống phía nam có mặt tại đảo Quang Hòa lúc 6g sáng 19-1 để đổ bộ các biệt đội.

Đến khoảng 6g ngày 19-1-1974, HQ-4 và HQ-5 áp sát phía nam đảo Quang Hòa, còn HQ-10 và HQ-16 cũng dàn đội hình ở phía tây tây bắc đảo.

Trước diễn biến đó, tàu chiến Trung Quốc cũng chia thành hai phân đội với hai chiếc Kronstadt 271 và 274 đối đầu với phân đoàn 1 Việt Nam. Hai chiến hạm Trung Quốc mang số 389 và 396 mới tới thì chặn phía tây bắc.

Vừa áp sát đảo Quang Hòa, các chiến hạm Việt Nam cộng hòa lập tức tung quân đổ bộ. 6g48 sáng 19-1, nhóm biệt hải tàu HQ-4 đổ bộ lên phía nam đảo, nhóm hải kích tàu HQ-5 lên phía tây tây nam.

Tuy nhiên, sóng gió ngược đã làm bè cao su nhóm hải kích bị đẩy ra ngoài. Tàu HQ-5 phải cho xuồng cứu hộ xuống trợ kéo bè vào đảo. Trong lúc ấy, ở phía bắc đảo Quang Hòa, hai tàu chiến Trung Quốc cũng đang hối hả đổ bộ với số quân đông áp đảo.

Quan sát từ đài chỉ huy, trung úy hải hành Phạm Ngọc Roa tường thuật: “Đội biệt hải HQ-4 lên được đảo Quang Hòa trước, tranh thủ tiến nhanh vào sâu trong đảo. Và rồi chạm trán với hàng trăm lính đổ bộ của Trung Quốc. Chúng lợi dụng phòng thủ sau bãi đá, chĩa súng hăm he bắn vào nhóm biệt hải. Hai bên dùng tay ra dấu chủ quyền quốc gia mình và xua đuổi nhau, nhưng chưa bên nào chịu rời đi”.

Trong lúc đó, nhóm người nhái của đội hải kích tàu HQ-5 cũng bắt đầu tiến vào đảo. Họ phải lội qua một đầm nước trống trải, ngập đến thắt lưng mà phía trước lại đầy mũi súng quân xâm lược…

Tình hình ngày càng căng thẳng

Ở phía tây tây nam đảo Quang Hòa, biệt đội hải kích do trung úy Lê Văn Đơn chỉ huy được đổ bộ từ chiến hạm HQ-5. Nhóm hải kích người nhái này tiến vào đảo bằng hai xuồng cao su với một số loại súng và dao găm. Hạ sĩ Đỗ Văn Long là người đầu tiên lao lên đảo.

Thượng sĩ giám lộ tàu HQ-4 Lữ Công Bảy kể lại: “Khi đến gần đảo Quang Hòa, bằng ống dòm và mắt thường, chúng tôi phát hiện doanh trại mới toanh có cờ Trung Quốc. Ở phía bắc đảo, hàng trăm quân Trung Quốc đổ bộ ào ạt lên. Chúng núp sau các tảng đá chĩa súng vào các biệt đội… Và rồi quân Trung Quốc đã nổ súng. Lúc 8g30, đại liên và cối 82 bắn thẳng vào đội hình nhóm hải kích VN. Họ đang ở vị trí cực kỳ nguy hiểm. Hai binh sĩ Việt Nam cộng hòa tử thương và hai bị thương”.

Đứng trên đài chỉ huy tàu HQ-4, trung tá Vũ Hữu San và thượng sĩ giám lộ Lữ Công Bảy, trung úy Phạm Ngọc Roa thấy đồng đội mình đang ở thế cực kỳ nguy hiểm.

Địa thế trống trải, họ không có vật cản gì để phòng thủ, trong khi phía Trung Quốc từ chỗ ẩn nấp cứ vãi đạn như mưa. 40 năm sau, hồi tưởng khoảnh khắc vệ quốc này, ông Roa vẫn cảm giác tim mình nhói lên khi nhìn thấy đồng đội ngã xuống. Tuy nhiên, nhóm hải kích vẫn không lùi một bước, đến khi được lệnh tạm rút, họ mới chịu lùi về tàu.

Lúc đó tình hình ngoài biển cũng hết sức căng thẳng. Tất cả chiến hạm Trung Quốc và Việt Nam đều trong tình trạng nhiệm sở chiến đấu 100%.

Cựu thượng sĩ Trần Dục, quản trưởng tàu HQ-4, kể ông đã thay mặt hạm trưởng yêu cầu tất cả sĩ quan, binh lính sẵn sàng quân trang, quân dụng chiến đấu với nón sắt, áo giáp, áo phao, giày không cột dây…

Từ soái hạm HQ-5 Trần Bình Trọng, đại tá Hà Văn Ngạc lệnh cho bốn chiến hạm di chuyển theo chiến thuật mới. Tàu HQ-4 và HQ-5 tiến từ phía tây nam tới tây đảo Quang Hòa.

Tàu HQ-16 và HQ-10 đến phía tây tây bắc. Đường tiến hai phân đội tạo thành vòng cung bao quanh Quang Hòa trong tình hình quân Trung Quốc vẫn đang chiếm giữ đảo. Dưới biển, tàu Trung Quốc lập tức di chuyển đội hình bám chặt bốn chiến hạm Việt Nam…

… Lúc đó, chuyện gì xảy ra tại Đà Nẵng, nơi đặt Trung tâm hành quân Vùng 1 duyên hải?

Rất căng thẳng. Và sau một cú điện thoại, tư lệnh Vùng 1 duyên hải Hồ Văn Kỳ Thoại đã đi đến một quyết định…

QUỐC VIỆT – TRẦN NHẬT VY

Sau khi Trung Quốc có những hành động gây hấn và xâm chiến Hoàng Sa, tháng 1-1974, Chính phủ cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam đã lên tiếng phản đối.Ngày 9-9-1975, Chính phủ cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam đã tiếp tục đăng ký Đài khí tượng Việt Nam tại Hoàng Sa và khẳng định chủ quyền Việt Nam đối với quần đảo này.Ngày 5-6-1976, người phát ngôn Bộ Ngoại giao Chính phủ cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam tuyên bố khẳng định chủ quyền của Việt Nam đối với hai quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa và có quyền bảo vệ chủ quyền đó.

Kỳ 4-Lệnh khai hỏa

HQ-4 chiến đấu với hai tàu 271 và 274 (ảnh Trung Quốc)

HQ-4 chiến đấu với hai tàu 271 và 274 (ảnh Trung Quốc)

Trung úy Phạm Ngọc Roa, phụ tá sĩ quan hải hành trên khu trục hạm HQ-4 Trần Khánh Dư (Việt Nam cộng hòa), vẫn nhớ mãi những phút căng thẳng trước lệnh khai hỏa.

Khai hỏa

“Tùy nghi khai hỏa…”. Từ trung tâm hành quân tại Đà Nẵng, phó đề đốc Hồ Văn Kỳ Thoại lệnh qua điện đàm với đại tá Hà Văn Ngạc.

“Khai hỏa”, đại tá Ngạc phát lệnh vào lúc 10g24 sáng 19-1-1974. Ngay lập tức, bốn chiến hạm HQ-4 Trần Khánh Dư, HQ-5 Trần Bình Trọng, HQ-16 Lý Thường Kiệt, HQ-10 Nhật Tảo bắt đầu tác xạ mãnh liệt vào các tàu chiến đối phương.

Tình hình tại chiến trường diễn ra hết sức ác liệt. Soái hạm HQ-5 bắn dữ dội vào các chiếc Kronstadt 274 ở hướng tây đảo Quang Hòa. Chiến hạm Trung Quốc này trúng đạn ngay loạt đầu tiên, di chuyển rất chậm chạp và phản pháo nhưng không gây thiệt hại cho HQ-5.

Cùng có mặt trên đài chỉ huy HQ-4 trong khoảnh khắc tử chiến đó, trung úy Roa kể chính nhờ hạm trưởng San cho tàu vận chuyển linh hoạt nên tránh được một trái pháo của tàu đối phương bắn vào đài chỉ huy, tuy nhiên nó lại bay vào ống khói. Mảnh đạn văng vào đài chỉ huy trúng ngay chân trung úy Roa. Các mảnh đạn khác cũng phá sụp chân màn hình radar làm nó không hoạt động. Tuy nhiên, trung úy Roa vẫn trụ vững ở vị trí theo dõi tàu địch. Dây liên lạc sĩ quan hải pháo với các khẩu đội đã bị mảnh đạn cắt đứt, không liên lạc được. Phía tàu chiến Trung Quốc cũng bị thiệt hại nặng nề. Trong làn đạn 76,2 li của HQ-4 Trần Khánh Dư, chiếc Kronstadt 271 bị trúng đạn bốc cháy dữ dội.

Tình hình trên tuần dương hạm HQ-16 Lý Thường Kiệt cũng rất ác liệt sau những loạt đạn bắn chuẩn xác vào chiến hạm TQ. Trong bài viết Sự thật về hải chiến Hoàng Sa, hạm trưởng Lê Văn Thự kể: “Tôi quay ngang tàu

HQ-16 đưa phía hữu mạn của tàu hướng về ba tàu Trung Quốc. Mục đích của tôi là tận dụng tất cả súng từ mũi ra sau lái. Nếu hướng mũi tàu về phía tàu Trung Quốc thì chỉ sử dụng được hỏa lực phía trước mũi thôi. Với lợi thế là sử dụng được tối đa hỏa lực nhưng cũng có bất lợi là hứng đạn nhiều hơn”.

Trung tá Thự kể tiếp chính mắt ông nhìn thấy một tàu Trung Quốc bốc khói, một tàu bị trúng hệ thống lái nên tàu cứ xoay quanh… Sau đó chiến sự diễn biến ác liệt hơn. Đối phương phản pháo, tàu Lý Thường Kiệt bị trúng đạn ở hầm đạn 127 li phía trước mũi nên nước biển tràn vào mỗi khi tàu chúc xuống. Hỏa lực chính hết tác xạ được. Ở lườn tàu dưới mặt nước, một lỗ pháo lớn làm nước biển tràn vào. Tàu bị nghiêng dần sang một bên.

HQ-16 Lý Thường Kiệt càng lúc càng nghiêng thêm theo lượng nước vào ồ ạt. Góc bị thủng không có chỗ để chống xà chặn tấm bố để bít lỗ thủng. Hạm trưởng phải cho đóng nắp hầm máy này lại để nước không tràn ra khoang khác. Từ lúc này, HQ-16 chỉ khiển dụng được một máy, sức mạnh yếu hẳn. Đặc biệt, hệ thống vô tuyến cũng tê liệt vì máy phát điện hư. Nhận thấy HQ-16 mất khả năng chiến đấu, hạm trưởng cho tàu tạm lùi khỏi lòng chảo Hoàng Sa.

Trận chiến của HQ-10 Nhật Tảo

Sau lệnh khai hỏa, các khẩu đội pháo trên chiếc HQ-10 Nhật Tảo rền lên trực xạ. Ở gần đó, các khẩu pháo của HQ-16 Lý Thường Kiệt do trung tá Lê Văn Thự làm hạm trưởng cũng đang tác xạ dữ dội. Những loạt đạn này đã bắn trúng trục lôi hạm 389 của đối phương làm nó phát nổ, bốc khói lửa rừng rực. Chiếc 396 ở gần đó cũng trúng đạn từ hai chiến hạm của Việt Nam. Hệ thống lái của tàu đối phương này bị phá hỏng làm nó loạng choạng trên biển. Cùng lúc đó, chiếc 389 còn bị trúng đạn vào hầm máy. Các báo cáo của hải quân Trung Quốc sau đó cũng thừa nhận hai chiến hạm 389 và 396 của mình đã trúng đạn ngay từ phút đầu: “Trong lúc chiếc hộ tống hạm HQ-10 bị trọng thương, trục lôi hạm 389 cũng bị chiến hạm Việt Nam bắn hư hại nặng. Đài chỉ huy hoàn toàn bị tiêu hủy. Thủy thủ đoàn nhiều người chết, bị thương. Hầm chứa đạn bị bắn thủng một lỗ lớn… Hầm máy cũng bị bắn trúng nên cháy dữ dội khiến tàu vô nước, bị nghiêng, không còn dưỡng khí khiến cơ khí phó và năm cơ khí viên tử thương tại chỗ”.

Tuy nhiên, ngay tình thế đang áp đảo, khẩu đội pháo chính phía trước chiến hạm Nhật Tảo lại trở ngại tác xạ. Máy tàu cũng yếu không kịp giúp con tàu xoay chuyển linh hoạt để phát huy pháo phía sau. Trong nhật ký trận Hoàng Sa, chuẩn úy Tất Ngưu, sĩ quan phụ trách khẩu 20 li và cối 81 li phía sau tàu, kể đang lúc ác liệt thì đến khẩu 20 li đôi cũng kẹt đạn. Ông phải cho bắn chỉ một nòng. Cả hai trục lôi hạm 389 và 396 của Trung Quốc tận dụng cơ hội này để trả đũa.

Chuẩn úy Tất Ngưu kể ông và đồng đội đang cố gắng tác xạ phía sau thì bất ngờ nghe tiếng rầm. HQ-10 Nhật Tảo và chiếc 389 đụng nhau. Từ đài chỉ huy, đại úy hạm phó Nguyễn Thành Trí dùng súng M16 bắn xối xả sang tàu đối phương. Có người cho rằng vì cả hai máy tàu lúc này đều bị bắn hư nên chúng đã trôi va vào nhau…”.

Tài liệu báo cáo chiến trận từ phía hải quân Trung Quốc mặc dù nặng tuyên truyền tinh thần chiến đấu và chiến tích, nhưng cũng có nhiều nội dung thừa nhận phải trả giá nặng nề”.

Trận chiến chỉ diễn ra trong vòng 30 phút. Hai bên đều thiệt hại nặng.

Quân Trung Quốc tăng viện mạnh. Các chiến hạm VNCH được lệnh rút lui khỏi vòng chiến sự. Một kế hoạch tái chiếm Hoàng Sa của VNCH với các chiến hạm tăng viện và 100 chiến đấu cơ F-5 đã được vạch ra nhưng bất thành.

Ngày 2-7-1976, Nhà nước CHXHCN Việt Nam được thành lập và hoàn toàn có nghĩa vụ, quyền hạn tiếp tục quản lý và bảo vệ chủ quyền Việt Nam đối với quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa.Ngày 12-5-1977, Chính phủ CHXHCN Việt Nam ra tuyên bố về các vùng biển và thềm lục địa Việt Nam, trong đó đã khẳng định quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa của Việt Nam có các vùng biển và thềm lục địa riêng. Đoạn 5 của tuyên bố viết: các đảo và quần đảo thuộc lãnh thổ Việt Nam ở ngoài vùng lãnh hải nói ở điều 1 đều có lãnh hải, vùng tiếp giáp lãnh hải, vùng đặc quyền về kinh tế và thềm lục địa riêng như đã quy định trong các điều 1, 2, 3 và 4 của tuyên bố này.

QUỐC VIỆT

Kỳ 5-Nhật Tảo nằm lại, không kích bất thành

HQ-10 Nhật Tảo

HQ-10 Nhật Tảo

TT – “Thiếu tá, hạm trưởng Ngụy Văn Thà tử trận ngay trên đài chỉ huy vì mảnh đạn cắt ngang cổ. Đại úy, hạm phó Nguyễn Thành Trí cũng bị thương nặng ở bụng, mặt và ngực.”

“Sau cú đâm thẳng vào trục lôi hạm 389 Trung Quốc, máy hộ tống hạm HQ-10 Nhật Tảo hoàn toàn bất khiển dụng, và các khẩu pháo chính cũng hư hỏng. Đại úy Trí máu ướt đẫm quần áo, ngậm ngùi phát lệnh rời chiến hạm”.

40 năm đã trôi qua, nhân chứng Trần Văn Hà trên chiến hạm Nhật Tảo vẫn không thể quên được thời khắc đó.

Rời tàu

Cũng như các binh sĩ khác, ông Trần Văn Hà, thủy thủ cơ khí, được đại úy Trí gọi tập trung lên boong, chuẩn bị rời tàu. Toàn cảnh bi hùng hiện rõ trước mắt mọi người.

Thiếu tá Thà gục xuống tay lái tàu. Nhiều sĩ quan, binh lính khác cũng tử trận hoặc bị thương la liệt khắp nơi. Thân tàu chi chít lỗ đạn pháo. Phía đối phương, trục lôi hạm 389 cũng đang bốc cháy rừng rực.

“Một số anh em nhất quyết đòi ở lại với tàu. Đó là những người đã bị thương nặng và cả một số pháo thủ chưa bị gì”. Nhắc lại chi tiết này, ông Hà nhớ mãi câu nhắn nhủ của những người bị thương nặng: “Thôi, chiến hữu xuống bè đi, để chúng tôi ở lại”. Đó là Lê Văn Tây, Ngô Văn Sáu…

Họ vừa nhắn nhủ lời chia tay vừa xem cơ số đạn còn lại. Trước khi hi sinh, thiếu tá Thà đã dự đoán trận hải chiến sinh tử. Ông cho người chuẩn bị bè cứu sinh và cột sẵn một số lon nước, túi kẹo năng lượng.

Chính nhờ sự cẩn thận này mà các binh sĩ rời tàu có thể cầm cự trên biển. Những binh sĩ còn khỏe thả bốn chiếc bè xuống. Có chiếc đã bị trúng mảnh đạn nhưng vẫn còn dùng tạm được.

Trong Nhật ký Hoàng Sa, chuẩn úy Tất Ngưu, sĩ quan phụ trách các khẩu đội pháo phía sau chiến hạm Nhật Tảo, kể ông là một trong những người nhảy xuống biển sau cùng.

Trước khi nhảy, ông còn gọi hạ sĩ Lê Văn Tây rời tàu. Viên hạ sĩ này rắn rỏi trả lời: “Thôi, tôi ở lại ăn thua đủ với bọn Trung Quốc, chuẩn úy cứ nhảy đi”.

Lúc ấy, những chiếc bè dưới biển đã bị sóng đánh dạt xa tàu. Chuẩn úy Tất Ngưu phải cố gắng bơi thật lâu mới bám được.

Khoảnh khắc cuối cùng

Ông Hà kể lúc ấy tất cả ánh mắt trên bè đều hướng về con tàu của mình trong khoảnh khắc cuối cùng. Hai chiến hạm Trung Quốc tăng viện đến sau đã xối xả bắn như trả thù vào chiếc Nhật Tảo.

Đạn bắn trả vẫn lóe lên trên đầu các họng súng từ chiến hạm VN. Nhìn nòng súng còn lóe đạn là biết đồng đội mình vẫn còn sống và đang tử chiến. Chiều chập choạng tối, ánh đạn lóe trên nòng pháo từ chiếc Nhật Tảo thưa dần rồi bặt hẳn.

Đứng từ đảo Hữu Nhật (Robert), trung sĩ Trịnh Văn Quý, thuộc nhóm đổ bộ từ khu trục hạm Trần Khánh Dư HQ-4, chứng kiến cảnh chiếc Nhật Tảo oằn mình dưới lửa đạn của chiến hạm Trung Quốc.

Ông Quý chính là chứng nhân những phút hải chiến đầu tiên khi chiến hạm Nhật Tảo dũng mãnh tả xung hữu đột cùng lúc với hai tàu chiến 389 và 396 Trung Quốc.

“Và tôi cũng chính là chứng nhân khoảnh khắc cuối cùng của chiến hạm này trước lúc nó chìm hẳn vào khoảng 8g ngày 20-1-1974 ở vị trí gần đảo Hữu Nhật”.

Dưới biển, các bè lúc này đã được cột lại với nhau, nhưng một chiếc bị sóng đánh tung ra. Đêm xuống, đại úy Trí lặng lẽ trút hơi thở cuối cùng, rồi thượng sĩ giám lộ Vương Thương, thượng sĩ Tuấn, Thọ… cũng lần lượt ra đi theo hạm trưởng, hạm phó của họ.

Những binh sĩ còn lại trên bè cũng bị bỏng nắng ban ngày, rét run ban đêm và lả dần trong đói khát. Hạm đội 7 của Mỹ án binh bất động, không đáp ứng đề nghị của VNCH nhằm cứu binh sĩ VNCH đang trôi giạt ngoài khơi.

Đến chiều tối 22-1, tức sau bốn ngày ba đêm lênh đênh trên biển, những người lính cuối cùng của chiến hạm Nhật Tảo được chiếc tàu buôn Hà Lan phát hiện, cứu vớt.

Tất cả chỉ còn 21 người! Chiến hạm HQ-10 Nhật Tảo đã nằm lại dưới đáy biển Hoàng Sa.

Không kích tái chiếm bất thành!

Một ngày sau khi Hoàng Sa rơi vào tay Trung Quốc, lực lượng phi công chiến đấu của quân đội VNCH đã được huy động cho một chiến dịch phản công tái chiếm chưa từng có.

Một trong những nhân chứng của chiến dịch ấy là Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân, đại tá phi công Nguyễn Thành Trung, lúc bấy giờ (1974) là thiếu úy phi công lái máy bay tiêm kích F5E của không lực VNCH.

Ông kể: “Lệnh tập kết các phi đoàn máy bay F5 từ Sài Gòn ra Đà Nẵng được ban hành khẩn cấp ngay trong ngày 20-1, một ngày sau khi Trung Quốc xâm chiếm Hoàng Sa. Khi ấy không đoàn chiến thuật 63 (thuộc sư đoàn 3 không quân) đóng tại Biên Hòa có năm phi đoàn F5 với hơn 100 chiếc sẵn sàng đợi lệnh.”

Trong khi anh em phi công của các phi đoàn đang rất náo nức chuẩn bị cho chiến dịch phản kích tái chiếm thì suốt ngày hôm đó, các phi cơ RF5A của phi đoàn 522 đã bay ra Hoàng Sa chụp không ảnh toàn bộ khu vực mang về căn cứ Đà Nẵng để chuẩn bị cho anh em phi công nghiên cứu.

Toàn bộ ảnh chụp khu vực quần đảo Hoàng Sa được phóng lớn. Tất cả anh em phi công đều nhìn thấy rõ cả số hiệu các tàu Trung Quốc đang đậu trên vùng biển Hoàng Sa. Có 41 chiếc tất thảy…

Chuẩn bị cho trận đánh tái chiếm Hoàng Sa với tinh thần “Trân Châu cảng” vừa khẩn cấp vừa náo nức. Trước ngày vào chiến dịch, tất cả anh em phi công của các phi đoàn F-5 đều ký dưới lá đơn “Xin được chết cho Hoàng Sa”.

Khi tất cả các phi đoàn F.5 được lệnh tập trung ở Đà Nẵng, người Mỹ vẫn chưa biết đến kế hoạch này. Nhưng chuẩn bị đến giờ G thì kế hoạch đã bị chặn lại. Cũng như trước đó, hạm đội 7 của Mỹ vẫn án binh bất động không hề có một động thái nào để cứu giúp binh sĩ VNCH.

Tất cả hào khí háo hức, sự chuẩn bị chu toàn của anh em nhằm đánh một trận “sạch không kình ngạc” chiếm lại quần đảo Hoàng Sa từ tay Trung Quốc bỗng chốc tan thành mây khói từ “lệnh của trên”!

Q.VIỆT – L.Đ.DỤC – L.NAM

Hoa Kỳ chính thức bỏ rơi Hoàng Sa từ lúc nào?Tài liệu mang mã số 1974STATE012641_b, đề ngày thứ bảy 19-1-1974 dưới đây chính là văn bản chính thức đầu tiên tỏ rõ lập trường của “đồng minh Hoa Kỳ” đối với Hoàng Sa:

“Đụng độ vũ trang trên quần đảo Hoàng Sa rõ ràng đã dẫn đến một số thương vong về phía Chính phủ Việt Nam, với báo cáo của Chính phủ Việt Nam rằng hai pháo hạm có thể bị đánh chìm bởi tên lửa Trung Quốc. Chính phủ Việt Nam đã yêu cầu Hoa Kỳ hỗ trợ tìm kiếm cứu nạn.

1. Tình hình phức tạp bởi sự hiện diện được báo cáo trên đảo Hoàng Sa (do Chính phủ Việt Nam chiếm đóng) của một nhân viên dân sự Mỹ trực thuộc văn phòng DAO (tùy viên quân sự Hoa Kỳ) tại Đà Nẵng. Chúng tôi không biết tại sao đương sự lại có mặt ở đó.

2. Chúng tôi đã yêu cầu Bộ quốc phòng chỉ đạo cho hải quân Hoa Kỳ đóng bên ngoài khu vực. Cách đây hai ngày (17-1), chúng tôi đã thảo luận tình hình với đại sứ Martin qua điện thoại và bày tỏ mối quan tâm của chúng ta trong việc làm dịu tình hình.

3. Thông cáo báo chí sẽ gồm những dòng chữ sau đây: Chính phủ Hoa Kỳ không đứng về phe nào trong các cuộc tranh chấp xung đột về quần đảo Hoàng Sa, song mạnh mẽ mong muốn giải quyết tranh chấp một cách hòa bình. Chúng tôi hiểu rằng cả CHNDTH và Chính phủ Việt Nam đều đã từng chiếm đóng một số đảo khác nhau thuộc nhóm đảo Hoàng Sa trong một số năm. Chúng tôi không rõ vụ đụng độ này đã nổ ra trong hoàn cảnh nào. Lực lượng quân sự Mỹ không dính dự vào vụ này.

4. Chúng tôi đang bảo tòa đại sứ Mỹ tại Sài Gòn khuyên Chính phủ Việt Nam tiến hành những bước tối thiểu nhằm tự vệ và cứu cấp các công dân của mình (và nhân viên Hoa Kỳ chúng ta nữa), và cố gắng tối đa tránh những đụng độ trực tiếp nữa với lực lượng CHNDTH…”.

Làm thế nào mà Nhà Trắng lại không biết tại sao nhân viên DAO nọ lại có mặt ở Hoàng Sa, lại không rõ đụng độ đã xảy ra trong hoàn cảnh nào, song lại “khuyên Chính phủ Việt Nam tránh đụng độ trực tiếp thêm nữa với CHNDTH” khi mà từ hôm 17-1, tức khi trận Hoàng Sa mới bắt đầu khởi sự (17-1), “chúng tôi đã thảo luận tình hình với đại sứ Martin qua điện thoại”?

Một sự “đứng ngoài cuộc” chính thức. Không phải vì Hiệp định Paris mà từ cái bắt tay Mỹ – Trung năm 1972.

HỮU NGHỊ

Người vọng phu Hoàng Sa

Chép từ Một thế giới

“Hôm ấy là 27 tết, cả nhà đang chuẩn bị đón năm mới thì được tin anh Thà tử trận trong khi chiến đấu giữ đảo. Trời đất dưới chân tôi sụp đổ, nếu không có ba đứa con thơ chắc có lẽ tui đã chết theo anh ấy…”, bà Huỳnh Thị Sinh, vợ của cố thiếu tá Ngụy Văn Thà, hạm trưởng chiến hạm Nhật Tảo HQ10 của Hải quân Việt Nam Cộng Hòa, người đã tử trận trong trận hải chiến năm 1974, bắt đầu câu chuyện với chúng bằng một sự kiện được xem là bước ngoặt của đời mình.

Mối tình thơ mộng của người lính biển

Sinh năm 1948 trong một gia đình gốc Bạc Liêu di cư lên Sài Gòn. Thời thiếu nữ, bà Sinh nổi tiếng là xinh đẹp và học giỏi.

“Khoảng năm 1963, thông qua một vài người bạn, tôi và anh Thà quen nhau. Lúc đó anh Thà là sinh viên hải quân mới ra trường, công tác tại một giang đoàn đóng quân ở Vĩnh Long”, bà Sinh nhớ lại.

Sau lần gặp nhau ở Sài Gòn vào đầu năm 1963, hai người bắt đầu thư từ qua lại với nhau.

Bà Huỳnh Thị Sinh hiện tại

Bà Huỳnh Thị Sinh hiện tại

Xen lẫn vào giữa những cánh thư đầy tình tứ ấy là những chuyến viếng thăm của bất ngờ của anh thiếu úy Hải quân.

“Nhiều người nghĩ rằng sĩ quan quân đội phải “hầm hố” lắm. Thế nhưng anh Thà không phải thế, ảnh rất thư sinh, hiền hậu. Mỗi lần lên Sài Gòn thăm tôi, ảnh chỉ quanh quẩn xem trong nhà có chuyện gì để làm giúp…Thỉnh thoảng lắm hai đứa mới rủ nhau đi dạo phố, xem phim…”, bà Sinh hồi tưởng.

Sau gần 4 năm quen nhau, đến năm 1967, ông Ngụy Văn Thà và bà Huỳnh Thị Sinh đi đến hôn nhân.

Một đám cưới đơn giản được tổ chức tại Trảng Bàng (Tây Ninh) – quê nhà của ông Thà.

Cuối năm 1967, ông bà có đứa con đầu lòng đặt tên là Ngụy Thị Thu Trang.

Hai năm sau đến lượt con gái thứ hai là Ngụy Thị Thu Thủy chào đời.

Và năm 1972, cô gái út Ngụy Thị Thu Tuyết được sinh ra.

Bà Sinh cùng ông Ngụy Văn Thà lúc mới quen nhau

Bà Sinh cùng ông Ngụy Văn Thà lúc mới quen nhau

Một năm sau khi sinh ra cô gái Út, ông Thà được chính quyền Sài Gòn cho thuê một căn hộ nằm trong chung cư Nguyễn Kim (Quận 10). Lúc này, ông Thà cũng được điều chuyển về làm việc ở chiến hạm Nhật Tảo HQ-10.

“Mang tiếng là có nhà riêng nhưng anh Thà đi suốt, rất ít khi anh ở nhà với vợ con. Có lúc hai tháng anh mới về nhà một lần, mỗi lần anh về ở nhà cũng chỉ khoảng 10 ngày rồi lại đi…”, bà Sinh kể.

Chuyến đi định mệnh

Đến giờ, nhắc đến lần gặp cuối cùng của hai vợ chồng, bà Sinh vẫn còn nhớ như in.

“Lần đó, chiếc tàu do anh chỉ huy bị hư hỏng nên phải vào cảng Ba Son để sửa chữa. Anh tranh thủ về nhà ở vài ngày. Buổi sáng trước ngày anh ra đi, sau khi chia tay vợ con anh Thà xách va li ra đi. Tuy nhiên, gần 3 giờ chiều khi tôi đang đứng trên tầng thượng chung cư thì thấy anh xách va li trở về. Hỏi có chuyện gì thì anh bảo chiếc tàu lại hư…” bà Sinh cho biết thêm.

Tuy nhiên, cũng chỉ ở bên vợ con thêm một đêm, sáng hôm sau ông Thà cùng chiến hạm của mình thẳng tiến Hoàng Sa để bảo vệ chủ quyền.

Chiều ngày 19.1.1974, thông qua báo chí, bà Sinh biết được có một trận hải chiến bảo vệ chủ quyền vừa mới diễn ra ở Hoàng Sa. Tuy nhiên, bà không hề biết trong trận hải chiến đó, tàu của chồng mình trực tiếp tham gia.

“Chiều ngày 20.1.1974, khi những chiếc tàu cuối cùng từ Hoàng Sa trở về thì tôi mới được báo tin là anh Thà đã tử trận ngay trên buồng chỉ huy, hôm ấy là 27 tết… Càng đau đớn hơn, khi đứa con gái lớn mang tờ giấy báo tin ra cầu thang đánh vần từng chữ “hạm…trưởng…Ngụy…Văn…Thà…đã…tử…trận”…”, nước mắt bà Sinh rơi dài khi nhắc đến chi tiết này.

Hai mươi sáu tuổi, một nách nuôi 3 con mà đứa lớn nhất chỉ mới lên 9, đứa nhỏ nhất vừa mới lên 3 khiến cuộc sống của bà “quả phụ Hoàng Sa” vô cùng khó khăn.

Để nuôi con, tài sản mà hai vợ chồng dành dụm được trong suốt 9 năm sống chung lần lượt “đội nón ra đi”.

Bà Sinh và ông Thà trong ngày cưới

Bà Sinh và ông Thà trong ngày cưới

Sau đó, phía Hải quân Việt Nam Cộng Hòa, cũng đã bố trí cho bà Sinh vào làm trong Ngân hàng Việt Nam thương tín để giải quyết phần nào khó khăn.

“Cần lắm một nơi thờ chồng”

Đó là ước mơ lớn nhất của bà “quả phụ Hoàng Sa” Huỳnh Thị Sinh.

Các con của bà bây giờ cũng có gia đình riêng nên bà cũng không còn quá nhiều điều bận tâm.

Bà cho biết, đã 4 năm nay, bà phải chuyển về sống chung gia đình của những người em.

Do sống chung nên việc thờ tự cho người chồng, người cố hạm trưởng mà bà vẫn vô cùng ngưỡng mộ, không thể thực hiện được.
Được biết năm 2009, ngôi nhà chung cư nơi mà bà đã ở từ năm 1973 bị nhà nước giải tỏa để xây mới nhưng đến nay vẫn chưa hoàn thành.

Ngày đó, nhà đầu tư đưa ra nhiều phương án để đền bù, tuy nhiên, do khu chung cư này có quá nhiều kỷ niệm với người chồng quá cố nên bà chấp nhận phương án nhận đền bù thấp để được một suất ở trong chung cư.

Trở lại với câu chuyện mưu sinh sau năm 1975, bà Sinh cho biết, mặc dù biết rõ ông Thà là sĩ quan cấp trung của chế độ Việt Nam Cộng Hòa, thế nhưng nhà nước cũng bố trí cho bà một công việc thích hợp.

Bà Sinh trong đám tang chồng

Bà Sinh trong đám tang chồng

Ban đầu là ở hợp tác xã mua bán, sau thấy bà Sinh có trình độ nên được bố trí qua của hàng ăn uống của quận với chức danh cửa hàng trưởng.

Số tiền lương không cao, thế nhưng nó cũng giúp bà nuôi con khôn lớn.

Mặc dù con cái không được học hành như mong muốn, song bà cũng tạm hài lòng về cuộc sống của gia đình mình thời đó.

Các con ông Thà ngày đó còn quá nhỏ

Các con ông Thà ngày đó còn quá nhỏ

Khi được hỏi về việc “không đi bước nữa”, bà “quả phụ Hoàng Sa” cho biết, vì quá yêu chồng và thương các con mà bà không có thời gian và cũng không hề nghĩ đến chuyện này.

Chia tay chúng tôi, bà Sinh cho biết, bà mới được mời đi tham gia một lễ tưởng niệm 40 năm trận hải chiến Hoàng Sa bà vui lắm.
Bà vui vì những người Việt Nam yêu nước vẫn còn nhớ đến Hoàng Sa, nhớ đến trận hải chiến oai hùng ngày nào và chồng bà – hạm trưởng Ngụy Văn Thà đã góp máu mình trong đó.

Ngoài bà Huỳnh Thị Sinh, còn có một “quá phụ Hoàng Sa” khác cũng ở vậy thờ chồng.
Đó là bà Ngô Thị Kim Thanh, vợ của hạm phó Nguyễn Thành Trí – người cũng đã tử trận trong trận hải chiến năm 1974.
Khi ông Trí mất, bà Thanh 28 tuổi và đang mang thai được hai tháng rưỡi.
Hiện bà Thanh đang sống tại một chung cư ở quận 3.
Mặc dù có chồng công tác chung đơn vị và cùng bỏ mình để bảo vệ bờ cõi, đất đai của tổ tiên thế nhưng hai người chỉ mới gặp nhau và trở thành bạn thân cách đây vài năm.

Nguyễn Minh – Ảnh: Võ Trâm

Hai bà quả phụ Hoàng Sa

(Copy từ Facebook của Huy Đức)

Gia đình bà quả phụ  Ngụy Văn Thà trong ngày tang lễ

Gia đình bà quả phụ Ngụy Văn Thà trong ngày
tang lễ

Tin dữ đến với gia đình những người lính hải quân tham chiến ở Hoàng Sa vào đúng 29 Tết. Trận hải chiến chống quân Trung Quốc xâm lược diễn ra vào ngày 19-1-1974, nhằm 27 tháng Chạp.

Lúc đó, hai mẹ con bà Ngô Thị Kim Thanh, vợ đại úy (truy thăng thiếu tá) hạm phó hạm Nhựt Tảo Nguyễn Thành Trí, đang ở Nha Trang. Bà Thanh kể: “Trước khi đi anh nói hai mẹ con ở nhà ngoại chờ, khi về anh ghé thăm”. Hạm Nhựt Tảo nhận lệnh lên đường gấp, bà Huỳnh Thị Sinh cũng đâu ngờ đó là cuộc hành quân cuối cùng của chồng, thiếu tá Ngụy Văn Thà (truy thăng trung tá).

Chiều cuối năm 2013, trên căn hộ tầng 4, bà Ngô Thị Kim Thanh vừa chỉ tấm hình bà đang khóc nấc trong lễ truy điệu chồng, một tay cầm khăn, một tay ôm bụng, vừa nói: “Tôi mang thai được hai tháng rưỡi, cái thai lúc nào cũng như muốn tuột ra”. Năm đó bà Thanh 28 tuổi, họ lấy nhau chưa được 6 năm.

Bà Thanh kể: “Xong tú tài, tôi muốn học sư phạm nhưng mẹ tôi nói, ở nhà lấy chồng”. Tôi xin vào làm nhân viên bán vé ở rạp chiếu bóng Minh Châu, Nha Trang, và ở đó, vào một chiều thứ bảy, tôi gặp anh, chàng học viên trường sĩ quan Hải quân. Tháng 9-1968 họ cưới nhau và sau khi Trí ra trường, Thanh theo chồng vào Sài Gòn. Khi đại úy Nguyễn Thành Trí mất, cô con gái đầu lòng, Nguyễn Thị Thanh Thảo, chỉ mới lên năm. Gần sáu tháng sau, bà hạ sinh một người con trai. Giấy khai sinh ghi: Nguyễn Thanh Triết, tự Hoàng Sa.

Sau khi chồng mất, Bộ tư lệnh Hải quân Việt Nam Cộng hòa thu xếp để hai bà quả phụ có một việc làm trong ngân hàng Việt Nam Thương tín. Công việc ổn định cho tới ngày 30-4-1975.

Bà Thanh nói: “Chú khỏi hỏi, khổ lắm”. Bà kể: “Hai con còn nhỏ mà tôi cứ bị điều đi tỉnh hoài. Năm 1978, tôi bị đưa ra Nha Trang. Con gửi ông bà nội vì Nha Trang lúc đó còn khổ hơn Sài Gòn, hai đứa bị thủy đậu, má chồng vất vả quá, ba má tôi cũng khuyên quay lại Sài Gòn. Năm 1980, tôi về nhưng không thể xin được việc vì hộ khẩu Sài Gòn đã bị cắt mất”.

Bà Sinh nghỉ việc ngân hàng nhưng có vẻ may mắn hơn trong chế độ mới. Bà nói:”Lúc đầu tôi sợ lắm, tất cả những kỷ vật nhà binh như kiếm, mề đay, của anh tôi đều mang bỏ đi hết. Những tấm hình chụp lễ truy điệu có Tư lệnh Hải quân dự tôi cũng không dám giữ. Ít lâu sau, cảnh sát khu vực thấy hoàn cảnh của tôi, giới thiệu tôi vào làm trong hợp tác xã mua bán. Đôi lần khi hội họp cũng có người đề nghị không cho tôi tiếp tục vì tôi là ‘vợ Ngụy’, may mà ông bí thư nói, ‘đừng dồn người ta vào chân tường”.

Nhưng một nách 3 con (Ngụy Thị Thu Trang sinh 1967, Ngụy Thị Thu Thủy sinh 1969, Ngụy Thị Thu Tuyết sinh 1972), bà Sinh xoay xở để sống qua những năm tháng cơ cực đó thật không mấy dễ dàng. Góa chồng năm 26 tuổi nhưng cũng như bà Thanh, bà Sinh ở vậy nuôi con. Bên cạnh tình yêu là lòng ngưỡng mộ chồng, cả hai người phụ nữ xinh đẹp và quả cảm này đã mặc cho thời xuân sắc đi qua lặng lẽ.

Từ trái sang phải: Bà Thanh (quả phụ Nguyễn Thành Trí) và bà Sinh (quả phụ Ngụy Văn Thà)

Từ trái sang phải: Bà Thanh (quả phụ Nguyễn Thành Trí) và bà Sinh (quả phụ Ngụy Văn Thà)

Kể từ khi ba người con gái lần lượt về ở bên nhà chồng, bà quả phụ Ngụy Văn Thà sống một mình trong căn hộ ở chung cư Nguyễn Kim, thuê của nhà nước Việt Nam Cộng hòa. Do đã ở đây từ năm 1973 nên lẽ ra bà đã được mua “hóa giá”căn hộ này với một khoản tiền tượng trưng. Nhưng năm 2009, vì đã xuống cấp, chung cư Nguyễn Kim bị giải tỏa để xây mới.

Nhà đầu tư đưa ra ba phương án đền bù, bà quả phụ Ngụy Văn Thà chọn phương án nhận 546 triệu đồng và đăng ký mua một căn hộ tái định cư. Từ hai năm nay, lô B, chung cư Nguyễn Kim đã xây xong. Giá căn mới là 1,3 tỷ. Thay vì chỉ còn phải trả 753 triệu, nhà đầu tư yêu cầu người dân ở đây phải hoàn lại số tiền nhà nước “hỗ trợ” để người dân thuê trong thời gian chờ nhà xây xong, lên tới hơn 200 triệu đồng, đưa số tiền phải đóng thêm lên tới 959 triệu (sau khi đã trừ phần đền bù 546 triệu). Các hộ dân ở đây không đồng tình, nhiều người không có khả năng bỏ ra thêm gần một tỷ đồng để quay lại chỗ cũ của mình.

Từ năm 2009, bà quả phụ Ngụy Văn Thà về lại căn nhà mà bố mẹ để lại, nơi 4 gia đình chị em bà đang ở, “chia” phòng với một người em gái độc thân. Bà nói: “Bạn bè anh ấy mỗi khi tới thăm cũng muốn thắp một nén nhang cho ảnh mà nhà không còn chỗ để bày bàn thờ”.

Kể từ khi kết hôn, bà quả phụ Nguyễn Thành Trí về làm dâu trong căn nhà 2B đường Bà Triệu, quận 5. Năm 2000, nhà chồng bán nhà chia cho 8 anh chị em, bà dùng số tiền này mua được một căn hộ chung cư 40 mét vuông. Hai người con của bà chưa lập gia đình cùng sống ở đây với bà.

Kể từ khi báo chí được nhắc trở lại vụ hải chiến Hoàng Sa, thỉnh thoảng lại có người tìm gặp. Không phải ai cũng đủ sự tinh tế để không chạm vào niềm kiêu hãnh của thân nhân một người lính quả cảm. Thanh Thảo, người con gái lớn của thiếu tá Nguyễn Thành Trí, tuy bị bạo bệnh, đang phải xạ trị, nói: “Chúng tôi tự hào về ba nhưng không muốn sống dựa vào tên tuổi của ông”.

Bà quả phụ Nguyễn Thành Trí (phía trái trong hình) và con gái 5 tuổi phía phải

Bà quả phụ Nguyễn Thành Trí (phía trái trong hình) và con gái 5 tuổi phía phải

Như muốn đẩy những ngày khốn khó về quá khứ, bà quả phụ Nguyễn Thành Trí nói: “Chúng tôi được như vầy đã là hạnh phúc lắm rồi”. Điều duy nhất tôi đọc thấy trong ánh mắt của bà là niềm tin chồng mình đã chết như một người anh hùng.